Wednesday, August 27, 2008

Thieu Ta Vo Dang Phuong

Thiếu Tá Võ Ðằng Phương, biểu tượng bất khuất của sĩ quan quân lực VNCH
Monday, September 22, 2008


Nói đến các cuộc bạo động trong tù, chúng ta không thể quên được “Vụ 20 tháng 04 năm 1979” xảy ra ở Phân Trại 4/Trại Bình Ðiền, tỉnh Thừa Thiên. Vụ này do một ban tham mưu gồm chín sĩ quan chỉ huy toàn thể 500 tù nhân trong trại vùng dậy, đòi cải cách chế độ lao tù như tôi đã đề cập ở trên. Sau vụ này, nhiều anh em tù nhân đã bị bọn công an đáng đập một cách bạo tàn đến gãy xương, trào máu, bầm gan tím ruột. Nhiều sĩ quan đã bị chết trong tù sau những trận đòn dã man như Ðại Úy Nguyễn Văn Báu, Ðại Úy Nguyễn Thuận Cát, Thiếu Úy Trần Hữu Sơn. Tất cả chín sĩ quan trong ban tham mưu nói trên đều bị cùm tay, cùm chân gần năm năm trời trong nhà biệt giam. Nếu ai có ở tù tại Phân Trại 4/Bình Ðiền lúc bấy giờ (20 tháng 4 năm 1979) mới chứng kiến được cảnh công an thuộc Ty Công An Bình Trị Thiên lên tàn sát tù nhân bất chấp Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế về Nhân Quyền. Chúng đã dã man đánh đập anh em liên tục không biết mệt. Sau khi hành nghề đấm đá ba tiếng đồng hồ, bọn công an “thợ đấm” bắt đầu rút khỏi trại để lại năm mươi nạn nhân nằm la liệt, rên la quằn quại trên những vũng máu như các anh Nguyễn Văn Thiện, Ðôn, Nguyễn Văn Vy, Nguyễn Hữu Ái, Nguyễn Trung Việt và anh Nguyễn Hữu Tứ... giống như cảnh ngoài chiến trường.

Chứng kiến cảnh đánh đập dã man như vậy, tất cả tù nhân khác trong trại đều căm thù đến uất nghẹn. Có một sĩ quan trong Phân Trại 4 lúc bấy giờ cảm thấy hận thù thêm chất ngất, mang sẵn dòng máu bất khuất, anh hùng của Lê Lợi, Quang Trung, dòng máu kiên cường, dũng cảm của Trần Hưng Ðạo, Trần Bình Trọng cũng như ý thức được Trách Nhiệm, Danh Dự và Tổ Quốc, anh dấn thân lao vào cuộc chiến mới ngay trong ngục tù cộng sản. Anh tiếp tục nuôi dưỡng ý chí đấu tranh đến giọt máu cuối cùng dầu anh ta biết rằng, chân lý dù có bị đè bẹp xuống dưới bùn lầy nước đọng rồi cũng sẽ ngóc đầu dậy mỉm cười với trời xanh bất chấp cả thời gian lẫn không gian. Cho dù anh có thể bị đọa đày trong kiếp tù tội thêm mười hay hai-mươi năm nữa, cho dù anh có thể bị xử bắn theo luật rừng... Anh vẫn hiên ngang bảo vệ chân lý đến cùng, không một chút nao núng trong lòng: Ðấy là Thiếu Tá Võ Ðằng Phương, Lữ Ðoàn 258 TQLC/QLVNCH.

Dầu đang ở trong ngục tù, Thiếu Tá Võ Ðằng Phương quyết định viết một lá thư gởi cho Thủ Tướng Cộng Sản Phạm Văn Ðồng để yêu cầu giải tỏa những vấn đề về Tự Do-Nhân Phẩm của con người. Võ Ðằng Phương ở tù lúc bấy giờ đã hơn mười năm rồi, nhưng anh vẫn dứt khoát viết một bức thư đề tên Thủ Tướng Phạm văn Ðồng để đại diện cho Nhân Dân Việt Nam yêu cầu chính phủ Hà Nội xét lại chính sách cai trị nhân dân của Ðảng Cộng Sản Việt Nam. Ðại Úy Nguyễn Ðình Khương, Tiểu Ðoàn Phó Tiểu Ðoàn 120 Ðịa Phương Quân, người đã tham gia vụ 20 tháng 4, bị cộng sản cùm gần năm năm mới được thả ra, đã được anh Phương móc nối để cùng nhau thảo nên bức thư đó. Lúc anh Khương được đưa từ Phân Trại 2 về Phân Trại 1, Khương ngủ sát chỗ nằm với Võ Ðằng Phương. Lúc bấy giờ mỗi người chỉ được “45 phân chiều ngang” để nằm và phải nằm nghiêng mới đủ chỗ. Theo lời thuật lại của anh Khương, hai người đã cùng nhau nằm ngủ trong mền để thảo ra bức thư đó. Nội dung bức thư mà anh Võ Ðằng Phương gởi Thủ Tướng Phạm văn Ðồng như sau:


“...Xét rằng:

1- Sau khi Cộng Sản chiếm miền Nam Việt Nam vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, tất cả các sĩ quan QLVNCH đều bị bắt giam trong các trại “cải tạo” mà không xét xử, không tuyên án. Ðây là một hành động vi phạm trắng trợn Hiệp Ðịnh Paris năm 1973 mà chính phủ ông đã ký kết.

2- Tất cả sĩ quan QLVNCH trong các trại “cải tạo” trên khắp lãnh thổ Việt Nam đều bị đối xử tồi tệ, vô nhân đạo. Ðó là một sự trả thù hèn hạ, thấp kém, điên cuồng, mất cả tình người, không đếm xỉa gì đến Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền.

3- Gia đình vợ con của tất cả sĩ quan QLVNCH cũng bị đối xử quá tồi tệ:

- Họ bị đày lên rừng thiêng nước độc để sống trong các vùng mệnh danh là Kinh Tế Mới.

- Tất cả những nhà cửa, tài sản của nhân dân miền Nam bị tước đoạt một cách công khai trắng trợn.

- Con cái của các sĩ quan trong chế độ cũ đều bị cấm vào học ở tất cả các trường vì bị coi là con của ngụy. Lý lịch ba đời bị gán cho những thành phần này khiến con cháu họ không thể làm bất cứ việc gì để sinh sống được.

4- Sau hơn 10 năm đất nước Việt Nam được thống nhất, nhân dân Việt Nam vẫn còn đói rách, cơm không đủ ăn áo không đủ mặc. Chiến tranh vẫn chưa chấm dứt, hòa bình vẫn chưa xuất hiện trên đất nước Việt Nam Sự tự do dân chủ vẫn chưa được thực thi. Nhân dân Việt Nam vẫn sống trong lo âu, sợ hãi. Ðiều này chứng tỏ Ðảng và Nhà Nước đang thi hành một chính sách sai lầm hoàn toàn.

Nay yêu cầu Ðảng và Nhà Nước:

- Thả ngay lập tức tất cả sĩ quan và những nhân viên của chế độ cũ đang bị giam cầm trái phép và phải đối xử nhân đạo theo bản tuyên ngôn nhân quyền quốc tế.

- Hãy đối xử nhân đạo và bình đẳng với vợ con, gia đình của tất cả sĩ quan và những viên chức trong chế độ cũ trước đây.

- Xét lại toàn bộ đường lối, chính sách của Ðảng và nhà nước để toàn dân được no cơm ấm áo và được sống trong một nước hòa binh, độc lập, tự do, dân chủ thực sự:

*Thực thi hòa giải hòa hợp dân tộc

*Phục hồi lại nền kinh tế

*Chấm dứt chiến tranh

*Giải tỏa lệnh bế quan tỏa cảng thông thương với nước ngoài.

Làm tại Bình Ðiền ngày 19 tháng 6 năm 1985

Ký tên Võ Ðằng Phương

Chủ Tịch Lâm Thời Phong Trào Thiết Lập nền Ðệ Tam Cộng Hòa”


Sau khi viết xong bức thư, anh Võ Ðằng Phương có mời một số sĩ quan đã tham gia vụ 20 tháng 4, 1979 cùng ký vào bức thư trên. Nhưng sau đó anh nghĩ rằng các anh này vừa tham dự một trận chiến trong ngục tù quá khốc liệt nên để các anh ấy nghỉ dưỡng quân một thời gian đã. Thế rồi anh Võ Ðằng Phương quyết định ký tên một mình. Sau đó anh ghi lại thành ba bản, một bản gởi Thủ Tướng Phạm Văn Ðồng, nhờ trưởng trại chuyển giao, một bản gởi cho Trưởng Trại Bình Ðiền, nhờ cán bộ trực chuyển giao, và một bản lưu. Sau khi Trại Trưởng Bình Ðiền, Trung tá Trần Văn Truyền nhận được bức thư nói trên, anh Võ Ðằng Phương liền bị cùm ngay và bị đưa vào ở nhà kỷ luật khoảng ba tháng trước khi ra tòa xét xử. Dĩ nhiên bức thư của anh Phương là một bản án chống lại chế độ Cộng Sản Hà Nội một cách rõ rệt nên ban tham mưu cán bộ trại cải tạo sau nhiều ngày họp với Ty Công An Bình-Trị-Thiên đã quyết định đưa anh ra tòa án nhân dân để xét xử.

Ðứng trước vành móng ngựa, Thiếu tá TQLC Võ Ðằng Phương đã trả lời một cách khẳng khái và hùng hồn, khiến ai nấy đều cảm phục. Một số nhân viên làm việc trong tòa án đã bỏ dở công việc để chạy vào xem, vì thấy “bị cáo” là một mẫu người thật khí khái. Cứ mỗi lần quan tòa hỏi câu nào, anh Võ Ðằng Phương không trả lời trực tiếp, anh giả bộ nói loanh quanh để chửi chế độ độc tài đang tác oai tác quái trên đất nước Việt Nam. Có đoạn anh Phương đã nói: “Tôi nói đây với tư cách của người dân bình thường, nói lên tiếng nói mà những người chung quanh tôi, bạn bè tôi, nhân dân Việt Nam không dám nói. Tôi nói có tình có lý chứ không phải sử dụng biện pháp quân sự để đàn áp.”

Nghe anh Phương nói vậy, quan tòa nói ngay: “Anh là một thằng sĩ quan ngụy không hơn không kém, anh là cái thá gì. Một triệu ngụy quân và chư hầu còn thất bại nói gì một mình anh.”

Nhưng rồi qua một đoạn khác anh Phương vẫn hiên ngang: “Các ông làm gì có luật pháp. Luật pháp của các ông là luật rừng. Tôi đã ở trong tay các ông thì do các ông quyết định.”

Thấy những lời nói của “bị cáo” hùng hồn bất lợi cho phiên tòa, tên quan tòa liền chỉ thị cho “bị cáo” nói câu cuối cùng. Biết chúng cố ý không cho nói nhiều, anh Võ Ðằng Phương quyết định cô đọng lại những ý tưởng quan trọng rồi tiếp tục ngẩng đầu cao và dõng dạc trước tòa:

- Ai là kẻ vi phạm Hiệp Ðịnh Paris 1973?

- Ai là kẻ gây ra chiến tranh và nghèo đói?

- Phạm Văn Ðồng phải chịu trách nhiệm hoàn toàn việc xé bỏ Hiệp Ðịnh Paris. Rồi đây nhân dân Việt Nam cũng như nhân dân thế giới đều được biết đến lời nói của tôi trước tòa án này.

Anh Võ Ðằng Phương đang nói thao thao bất tuyệt thì tên quan tòa đứng lên tuyên bố chấm dứt phiên tòa để vào nghị án. Sau khi nghị án, tòa tuyên án anh Phương 10 năm tù ở sau khi thi hành xong án tù “cải tạo” vì phạm tội “âm mưu lật đổ chính quyền dân chủ nhân dân”.

Theo lời anh Nguyễn Kim Chung (Ðại Úy TQLC cũng đã xuất hiện trong phiên tòa này như một bị cáo vì bị nghi ngờ có liên hệ đến vụ này), khi nghe đọc bản án, anh Chung nghĩ rằng đây là một bài luận văn viết đâu sẵn từ trước. Còn việc đưa anh Võ Ðằng Phương ra tòa xét xử chẳng qua chỉ là một việc làm có tính cách hình thức để đánh lừa quần chúng mà thôi. Như vậy từ năm 1975 đến năm bị đưa ra tòa, anh Phương đã ở tù được 10 năm. Bây giờ theo lệnh tòa án anh Phương tiếp tục ở tù thêm 10 năm nữa là 20 năm.

Sau khi rời tóa án và bị còng tay đưa lên lại trại “cải tạo” Bình Ðiền để ở tù tiếp, trại trưởng Trung tá Trần văn Truyền lúc bấy giờ có khuyên anh Phương nên nhún nhường và phải biết điều hơn, anh Phương đã quát vào mặt tên trại trưởng: “Ông đừng có dạy đời tôi nữa. Ông biết Trần Bình Trọng trong lịch sử Việt Nam chứ? Tôi muốn sống như Trần Bình Trọng!”

Dĩ nhiên sau đó Thiếu Tá Võ Ðằng Phương tiếp tục ở tù thêm mười năm nữa trong sự uất ức và hận thù triền miên. Mãi đến năm 1995, anh Võ Ðằng Phương mới được Cộng Sản trả tự do khỏi trại cải tạo Hàm Tân. Lúc trở lại quê nhà, anh bị bạo bệnh kéo dài và hành hạ do những trận đòn tra tấn dã man và độc ác qua những năm tháng quằn quại trong ngục tù cộng sản để rồi sau đó, anh đã vĩnh biệt cõi đời trong tức tưởi và uất nghẹn vì thù nhà chưa trả nợ nước chưa đền.

Qua những hành động đầy kiên cường và bất khuất của Thiếu tá Võ Ðằng Phương nói trên, chúng ta thấy rằng Sĩ Quan QLVNCH luôn biểu lộ Tinh Thần Danh Dự-Tổ Quốc-Trách Nhiệm ngay trong ngục tù cộng sản.

Võ Ðằng Phương là một Sĩ Quan đã Vị Quốc Vong Thân. Tổ Quốc và Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa vinh danh anh.

(Trích hồi ký “Trại Ái Tử và Bình Ðiền “ của Dương Viết Ðiền, tái bản 2003)

No comments: